Cơ duyên và hành trạng Tự Đắc Huệ Huy

Sư xuất thân vùng Thượng Ngu (上虞), Cối Kê (會稽, Tỉnh Triết Giang), họ là Trương (張).Lúc còn nhỏ, sư theo xuất gia với Trừng Chiếu Đạo Ngưng (澄照道凝) và thọ giới. Đến năm 20 tuổi sư yết kiến thiền sư Chân Yết Thanh Liễu (眞歇清了) ở Trường Lô Tự (長蘆寺).

Sau đến tham vấn nơi Thiền Sư Hoằng Trí Chính Giácđại ngộ. Được Chính Giác truyền lại pháp Thiền của Tông Tào Động. Sự ngộ đao của sư được viết lại trong công án sau:

Sư đến yết kiến Hoằng Trí. Trí nhắc: "chính trong sáng có tối, chẳng dùng tối gặp nhau, chính trong tối có sáng, chẳng dùng sáng thấy nhau" để hỏi Sư. Sư chẳng khế hội.

Đầu hôm, Sư định trở lại trước tượng Thánh tăng thắp hương, mà Hoằng Trí cũng vừa đến.

Sư trông thấy liền chóng rõ câu nói trước. Hôm khác,Sư vào thất.

Hoằng Trí nhắc: Than ôi! Ngày trước mặt như ngọc, lại than! Xoay về râu tợ sương, để hỏi Sư. Sư đáp:- Kia vào ly, kia ra vi.

Từ đây, Sư hỏi đáp không ngại.

Sư được Hoằng Trí ấn chứng truyền pháp, công nhận là Pháp tử của mình.

Vào năm thứ 7 (1137) niên hiệu Thiệu Định (紹定), sư khai mở đạo tràng thuyết pháp ở Bổ Đà (補陀). Rồi sau đó sư đến trụ trì tại các chùa khác như: Vạn Thọ (萬壽), Cát Tường (吉祥), Tuyết Đậu (雪竇)...

Đến năm thứ 3 (1176) niên hiệu Thuần Hy (淳熙), sư được cử đến trú trì Tịnh Từ Tự (淨慈寺) ở Lâm An (臨安), nhưng 4 năm sau thì lại trở về Tuyết Đậu Tự

 Vào ngày 29 tháng 11 năm thứ 10 cùng niên hiệu Thuần Hy, sư thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi đời và 75 hạ lạp, được vua ban cho hiệu là Tự Đắc Thiền Sư (自得禪師).

Sư có để lại quyển Linh Trúc Tịnh Từ Tự Đắc Thiền Sư Ngữ Lục (靈竹淨慈自得禪師語錄) 6 quyển.